Ba then chốt trong chiến lược mới về đối ngoại và hội nhập quốc tế
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV lần đầu tiên xác định “đối ngoại, hội nhập quốc tế” ngang hàng với “quốc phòng, an ninh”, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên của toàn hệ thống chính trị. Cách tiếp cận này đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy chiến lược của Đảng, khi sức mạnh quốc gia không chỉ dựa vào năng lực quân sự mà còn ở khả năng tạo dựng thế và lực thông qua ngoại giao, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế.
Sự thay đổi này xuất phát từ biến động của môi trường toàn cầu: cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, an ninh mạng, biến đổi khí hậu và những thách thức phi truyền thống ngày càng ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh – phát triển của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, đối ngoại không thể chỉ đóng vai trò hỗ trợ, mà phải đồng hành cùng quốc phòng – an ninh để bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Việt Nam đã trưởng thành mạnh mẽ sau hơn bốn thập niên đổi mới: quan hệ ngoại giao với 195 quốc gia, 14 đối tác chiến lược toàn diện, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đảm nhiệm các trọng trách quốc tế như Chủ tịch ASEAN và Ủy viên HĐBA LHQ. Những kết quả này cho thấy đối ngoại đã trở thành nguồn lực trực tiếp nâng tầm vị thế quốc gia. Tuy nhiên, tư duy hội nhập ở một số lĩnh vực vẫn còn cục bộ; năng lực dự báo, khả năng tham gia định hình luật chơi toàn cầu còn hạn chế; và rủi ro phụ thuộc vào chuỗi cung ứng, công nghệ, pháp lý quốc tế vẫn hiện hữu.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Thủ tướng Campuchia Hun Manet và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone có buổi ăn sáng, làm việc do Thủ tướng Campuchia chủ trì, nhân chuyến tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 và các Hội nghị Cấp cao liên quan diễn ra tại Kuala Lumpur, Malaysia ngày 27-10. Ảnh: TTXVN
Trong giai đoạn tới, để hiện thực hóa chiến lược nâng tầm đối ngoại, cần tập trung vào ba nhóm nhiệm vụ then chốt.
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa ba trụ cột đối ngoại: đối ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Điều này nhằm đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất và phát huy sức mạnh tổng hợp trong triển khai đường lối đối ngoại.
Thứ hai, tăng cường năng lực nghiên cứu và dự báo chiến lược. Bối cảnh thế giới biến động nhanh đòi hỏi khả năng “thấy trước để hành động trước”. Đầu tư cho các cơ quan nghiên cứu chiến lược là yêu cầu cấp thiết để hỗ trợ hoạch định chính sách đối ngoại chủ động và hiệu quả.
Thứ ba, bảo đảm nguồn lực tương xứng cho ngoại giao. Cần xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao – quốc phòng – an ninh có bản lĩnh, trình độ quốc tế, am hiểu luật pháp, kinh tế và an ninh; đồng thời xây dựng nền ngoại giao hiện đại, đủ khả năng thực thi các nhiệm vụ chiến lược mới.
Ba trụ cột này sẽ là nền tảng để Việt Nam chủ động hội nhập, giữ vững môi trường ổn định, mở rộng không gian phát triển và nâng cao vị thế quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.

